Rắn |
Thời điểm hóa thạch:
Đầu Kỷ Creta - nay,
112–0Ma
|
|
Phân loại khoa học |
Giới (regnum) |
Animalia |
Ngành (phylum) |
Chordata |
Lớp (class) |
Sauropsida |
Bộ (ordo) |
Squamata |
Phân bộ (subordo) |
Serpentes
Linnaeus, 1758 |
Cận bộ và họ |
- Alethinophidia - Nopcsa, 1923
- Acrochordidae- Bonaparte, 1831
- Aniliidae - Stejneger, 1907
- Anomochilidae - Cundall, Wallach & Rossman, 1993
- Atractaspididae - Günther, 1858
- Boidae - Gray, 1825
- Bolyeriidae - Hoffstetter, 1946
- Colubridae - Oppel, 1811
- Cylindrophiidae - Fitzinger, 1843
- Elapidae - F. Boie, 1827
- Loxocemidae - Cope, 1861
- Pythonidae - Fitzinger, 1826
- Tropidophiidae - Brongersma, 1951
- Uropeltidae - Müller, 1832
- Viperidae - Oppel, 1811
- Xenopeltidae - Bonaparte, 1845
- Scolecophidia - Cope, 1864
|
Rắn là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài
động vật bò sát ăn thịt, không chân và thân hình tròn dài (cylinder), thuộc phân bộ
Serpentes, có thể phân biệt với các loài
thằn lằn không chân bằng các đặc trưng như không có mí mắt và tai ngoài. Giống như các loài bò sát có vảy (
Squamata) khác, rắn là động vật có xương sống,
có màng ối,
ngoại nhiệt với các lớp
vảy xếp chồng lên nhau che phủ cơ thể. Nhiều loài rắn có
sọ
với nhiều khớp nối hơn các tổ tiên là động vật dạng thằn lằn của chúng,
cho phép chúng nuốt các con mồi to lớn hơn nhiều so với đầu chúng với
các quai hàm linh động cao.
Để phù hợp với cơ thể thuôn và hẹp của mình, các cơ quan có cặp đôi của
rắn (như thận) được bố trí theo kiểu cái này nằm phía trước cái kia
thay vì ngang hàng ở hai bên, và phần lớn các loài rắn chỉ có một
phổi hoạt động. Một vài loài vẫn duy trì một
đai chậu với một cặp vuốt dạng vết tích ở một trong hai bên của
lỗ huyệt.
Các loài rắn còn sinh tồn được tìm thấy trên gần như mọi châu lục (ngoại trừ
châu Nam Cực), trong lòng các đại dương như
Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương, và trên phần lớn các khối lục địa nhỏ hơn — các ngoại lệ bao gồm một số đảo lớn như
Ireland và
New Zealand, và nhiều đảo nhỏ trong Đại Tây Dương và Trung Thái Bình Dương.
[2] Trên 20
họ rắn hiện nay đang được công nhận, bao gồm khoảng 500
chi với khoảng 3.400-3.550
loài.
[1][3] Kích thước của chúng biến động từ nhỏ, như
rắn chỉ (
Leptotyphlops carlae) chỉ dài khoảng 10 cm (4 inch), cho tới lớn như
trăn gấm (
Python reticulatus) dài tới 8,7 m (29 ft).
[4][5] Loài tìm thấy ở dạng hóa thạch là
Titanoboa cerrejonensis
dài tới 15 m (49 ft). Người ta cho rằng rắn đã tiến hóa từ các loài
động vật dạng thằn lằn hoặc là sống đào bới hoặc là thủy sinh trong giai
đoạn
Creta giữa, và các hóa thạch sớm nhất đã biết có niên đại khoảng 112
Ma. Sự đa dạng của rắn đã xuất hiện trong
thế Paleocen (khoảng 66 tới 56 Ma).
Phần lớn các loài rắn không có nọc độc, còn những loài nào có nọc độc
thì chủ yếu sử dụng nó vào việc giết chết hay khuất phục con mồi thay
vì để phòng vệ. Một số loài có nọc độc mạnh tới mức đủ gây ra vết thương
đau nhức hay gây
tử vong cho con người. Các loài rắn không nọc độc hoặc là nuốt sống con mồi hoặc là giết nó bằng cách quấn và vặn xiết.